Hỏi: Kính bạch
Thầy, sự suy tư trong việc làm, để làm việc không thất bại, đó có phải là trí
tuệ hay không? Trí tuệ đó có bằng tri kiến giải thoát trong Đạo Phật không? Xin
Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ .
Đáp: Sự suy tư
trong hành động để làm việc không gặp thất bại, đó là tri kiến thế gian, nó
thường mang theo những hành động thiện và ác, nên khi biến ra hành động việc
làm thường mang theo quả khổ vui của tri kiến đó, nó không phải là tri kiến
giải thoát của Đạo Phật, nó là tri kiến dính mắc khổ đau, còn tri kiến dùng để
quán xét xả tâm diệt ngã, ly dục ly ác pháp, đó là tri kiến dùng để tu tập Định
Vô Lậu trong từng tâm niệm, từng hành động việc làm để xả tâm tham ưu, phiền
não, do sự quán xét tư duy này nên tâm được giải thoát an vui, thanh thản và vô
sự đó là tri kiến giải thoát.
Tu tập trong tâm niệm và việc làm, tức là tu tập
Thân Hành Niệm, đó là một pháp môn đệ nhất của Đạo Phật về việc chánh niệm tỉnh
thức, nhưng đây là giai đoạn đầu của pháp Thân Hành Niệm.
Tu tập Định Vô Lậu, giúp chúng ta sống trong chánh
niệm diệt trừ tà niệm.
Tu tập Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, là giúp chúng ta
tỉnh thức phá trừ si mê hôn ám và thường sống trong thiện pháp. Để xác định một
lần nữa về trí tuệ thế gian và trí tuệ giải thoát. Trí tuệ là sự hiểu biết và
tư duy đều giống nhau cả. Nhưng sự tư duy suy nghĩ một điều gì mà do lòng ham
muốn và nghiệp tham, sân, si thúc đẩy thì đó gọi là trí tuệ thế gian; còn sự tư
duy, suy nghĩ đó mà đi ngược lại với lòng ham muốn và nghiệp tham, sân, si thì
đó là trí tuệ giải thoát, còn gọi là tri kiến giải thoát.
Do sự phân tích và xác định này, thì tri kiến giải
thoát không phải ngoài trí tuệ thế gian mà có, không phải do tu tập Thiền định
mà sanh ra theo kiểu Thiền Đông Độ đã nghĩ tưởng. Ngồi yên lặng không niệm
thiện niệm ác, tức là không có vọng tưởng thì trí tuệ phát sanh. Trí tuệ đó,
không phải là trí tuệ giải thoát mà là tưởng tuệ.
Có một câu chuyện xảy ra trong thế kỷ này, người ta
ca ngợi về Thiền Đông Độ một cách huyền thoại:
Họ nói rằng trong thời chiến tranh Việt Nam có một
vị Đại Sứ Mỹ C.B.L. khi được Tổng Thống
Mỹ đưa sang Việt Nam để giải quyết vấn đề Phật Giáo năm 1962-1963, thì Ông phải
đi sang Nhật Bổn học Thiền một khoá rồi mới đến Việt Nam giải quyết. Người ta
bảo rằng mỗi khi có gặp một vấn đề khó khăn không giải quyết được, thì Ông tọa
Thiền khoảng 30 phút là trí tuệ Ông phát ra và hôm sau Ông giải quyết sự việc
một cách tốt đẹp, đó cũng là một trò lừa bịp.
Khi nghe trong Kinh điển Đức Phật dạy: “Giới sanh định, định
sanh tuệ”. Do định sanh tuệ, rồi
người ta lại tưởng ra và hiểu một cách sai lệnh về định, cho rằng: ngồi Thiền
giữ tâm không vọng tưởng là định và khi ngồi im lặng được không vọng niệm xen
vào thì trí tuệ phát sanh, trí tuệ này do định sanh rất thông minh. Người ta
chưa biết định là gì, nên đã hiểu lầm chữ định sanh tuệ trong nhà Phật.
Chữ định trong nhà Phật, là chỉ cho tâm ly dục ly ác
pháp, nếu tâm chưa ly dục ly ác pháp thì tri kiến đó là tri kiến thế gian, còn
tâm đã ly dục ly ác thì tri kiến ly dục ly ác pháp đó là tri kiến giải thoát,
tri kiến giải thoát tức là định, tức là tâm ly dục ly ác pháp, tâm ly dục ly ác
pháp là tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh tức là tâm bất động, tâm bất động tức là
định, định tức là tri kiến giải thoát. Như vậy, Đức Phật gọi định sanh tuệ, chứ
không phải ngồi như con cóc không niệm thiện niệm ác rồi mới phát sanh trí tuệ.
Đó là, một sự hiểu sai lệch, hiểu theo tưởng tri của các nhà học giả xưa và
nay.
Hằng ngày, con tu tập diệt ngã xả tâm, ngăn ác diệt
ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp là con đã tu tập tri kiến giải
thoát. Nhờ tu tập trí tuệ tri kiến giải thoát này tâm con nhuần nhuyễn, bén
nhạy, phản ứng tự nhiên, khi gặp các ác pháp khiến tâm con thanh thản và an lạc
thì đó gọi là tri kiến giải thoát. Cho nên, một sự tư duy suy nghĩ nào, mà
khiến cho tâm ly dục ly ác pháp là trí tuệ tri kiến giải thoát của con chứ
không phải ngồi Thiền mà phóng ra trí tuệ đó được.
Muốn có trí tuệ tri kiến giải thoát, thì ngày nào
con cũng tu tập quán xét, suy tư để đẩy lùi các chướng ngại pháp trong thân tâm
đó là con tu tập rèn luyện trí tuệ tri kiến giải thoát, nó lớn mạnh dần theo sự
tu tập của con là con đã khắc phục được tâm tham ưu khổ não của mình, tức là
con khắc phục được sanh tử luân hồi.
Những việc tu tập này Đức Phật gọi là Thiền định: “Này các Thầy Tỳ
Kheo, đối với các pháp ác bất thiện chưa sanh, khởi lên ý muốn không cho sanh
khởi, tinh cần, tinh tấn, quyết tâm, cố gắng… Đối với các pháp ác, bất thiện đã
sanh, khởi lên ý muốn đoạn tận, tinh cần, tinh tấn, quyết tâm, cố gắng…Đối với
các pháp thiện chưa sanh, khởi lên ý muốn làm cho sanh khởi, tinh cần, tinh
tấn, quyết tâm, cố gắng… Đối với pháp thiện đã sanh, khởi lên ý muốn làm cho an
trú, không cho vong thất, làm cho tăng trưởng, làm cho quảng
đại, tu tập, làm cho viên mãn, tinh cần, tinh tấn, quyết tâm, cố gắng…” Trên đây, là một bài Kinh trong 37 phẩm trợ đạo mà
Đức Phật đã dạy chúng ta tu Thiền định thuộc Tăng Chi Bộ Kinh Tập 1, trang 82,
bài 14-17, tựa là Thiền Định.
Tóm lại, từ định sanh ra trí tuệ tri kiến giải thoát
thì phải ở trong thân hành niệm mà tu tập. Nhờ có tu tập pháp Thân Hành Niệm,
thì mới đủ năng lực đẩy lùi các ác pháp và
nội lực tham dục, sân dục và si dục. Những dục tham, sân, si này rất mạnh,
nếu một người tu hành mà không hành pháp Thân hành Niệm thì chẳng bao giờ có
nội lực để đương đầu với nội lực ác pháp tham, sân, si, chúng có một sức mạnh
kinh khủng là vì chúng ta đã tập tham, sân, si nhiều đời nhiều kiếp chứ không
phải có một đời này.
Thân Hành Niệm, là một tên pháp môn chỉ gồm chung
nhiều pháp môn tu tập, rèn luyện về trí tuệ tri kiến giải thoát về nội lực bảy
Giác Chi, về lệnh Tứ Như ý Túc.
Do sự suy tư tu tập này, chúng ta suy ra mới thấy rõ
đường lối tu tập của Đạo Phật là chuyển từ tri kiến thế gian để trở thành tri kiến
giải thoát, từ tri kiến giải thoát chuyển thành tâm ly dục ly ác pháp từ tâm ly
dục ly ác pháp chuyển thành tuệ Tam Minh, chứ không phải từ sự yên lặng nào mà
sanh ra được.
Đạo Phật, là đạo trí tuệ, là đạo chuyển hóa tâm phàm
phu trở thành tâm Thánh.
Vậy, các con có muốn mình, có trí tuệ tri kiến giải
thoát hay không?.
Muốn được như vậy không phải dễ đâu!
Phải bằng nước mắt, xương và máu của chúng ta, có
nghĩa là chúng ta phải chết đi một lần và sống lại.
Nếu không có sự quyết tử ấy, thì cuộc đời tu hành
của chúng ta hoài công vô ích mà thôi.
Bởi, tâm Thánh không thể dành cho những kẻ còn ham
sống sợ chết, đàng nào rồi các con cũng phải chết, nhưng chết trong đau khổ và
mãi mãi khổ đau. Ngược lại, người sống mà như đã chết, thì sẽ sống mãi, sống
mãi muôn đời và không còn khổ đau nữa.
(Trích Đường về xứ Phật tập I)
(Trích Đường về xứ Phật tập I)
---&---